Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam Được dịch 3 thứ tiếng

Chinhphu.vn) - Trung Quốc mới đây lại viện dẫn Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như một "bằng chứng" về việc Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Song đây là một "vở diễn lại" quá lố của Trung Quốc bởi công luận Việt Nam đã từng phân tích sáng tỏ nội dung Công hàm 1958, khẳng định rằng văn bản này được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Dưới đây, Báo điện tử Chính phủ xin dẫn lại bài báo "Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam" đăng trên báo Đại Đoàn kết vào tháng 7/2011 trong đó tác giả bài báo phân tích rõ nội dung Công hàm 1958 cũng như chỉ ra những diễn giải xuyên tạc của Trung Quốc đối với văn bản này:

Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:

"Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng".
Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan.
Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia.
Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra.
Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược "lấn sân" của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển.
Ngày 26/5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất.
Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng" Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ.
Ngày 12/9/1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này.
Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23/8/1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.
Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách" đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH -Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em". Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH - Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa" của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép" thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố.
Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên.
Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.
Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu.
Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực.
Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế.
Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế.
Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.
Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do.
Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel" để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam.
Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel". Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch; (2) Quốc gia nại "estoppel" phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại "estoppel" cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine", bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua", bản án "Ngôi đền Preah Vihear"...
Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó.
Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn" Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình".

TIẾNG ANH
Chinhphu.vn ) - China's recent diplomatic note citing the 1958 Prime Minister Pham Van Dong as a "proof " of Vietnam has recognized China's sovereignty over the two archipelagoes of Hoang Sa and Truong Sa . But this is a " play back " excesses of the Chinese public by Vietnam has clear content analysis Verbale 1958 confirmed that this text is shown very careful , especially with no relinquishes the sovereignty of Vietnam towards the two archipelagos Hoang Sa and Truong Sa .Here , the Government Electronic Press article please lead the " 1958 Note Verbale Paracel , Spratly Vietnam " published in the University Union in May 7/2011 article in which the author analyzes clearly the 1958 capacity levels as well as point out the distorted interpretation of China for this text :Recently China has always called claiming they had indisputable sovereignty over the two archipelagoes of Hoang Sa and Truong Sa . The Chinese interpretation Verbale dated 14.9.1958 content of the Prime Minister Pham Van Dong as evidence that Vietnam has recognized China's sovereignty over the two archipelagoes of Hoang Sa and Truong Sa is out very one-sided and distorted content , meaning that the diplomatic note , completely unfamiliar with the legal foundations of Vietnam as well as international law , regardless of the objective reality of the current historical context . It can be said , explaining misrepresent Company in 1958 as a function of the sequence of actions calculated to create excuses , step by step to legitimize their claims to their irrational archipelagos Hoang Sa and Truong Sa of Vietnam South .According to the interpretation of China , September 4, 1958 , Chinese Premier Zhou Enlai had publicly declared the decision of the International Chinese government on Sept 12 nautical miles from the mainland of China and offshore islands , including Xisha and Nansha ( ie, the Paracels and the Spratlys of Vietnam ) . Subsequently, on 09.14.1958 , the Prime Minister's Democratic Republic of Vietnam ( DRV ) Pham Van Dong send a note to Premier Zhou Enlai , verbatim as follows :" Dear Comrade General Management ,We are pleased to report to the General Comrade clear reason : the Government of the Democratic Republic of Vietnam recognizes and supports the declaration of September 4, 1958 of the Government of the People's Republic of China decided to China 's territorial waters .Government of the Democratic Republic of Vietnam respects this decision and will direct the state agencies responsible strictly respect the territorial sea of 12 nautical miles from China in all relations with the People's Republic of China States on the sea surface . We respectfully send greetings of Comrade General appreciate . "It must be observed that the above statement of China as well as the introduction of the DRV in the context of more complex movement and urgency for China on the territorial sea in accordance with international law as well as taking tense of military issues around the Taiwan Strait .In 1956, the UN began conducting international conferences discuss the Law of the Sea , then some agreement was signed in 1958 , but has yet to satisfy the territorial claims of a number of countries .From the early twentieth century , many countries have begun to pay attention to the enormous resources from mineral and marine resources , expressed intentions to expand its maritime sovereignty . China , though historically less interested in the sea , and began to pay attention to the expansion , seeking privileges at sea . Even though it is not a member of the United Nations , but China also started to pay attention to speak with the international community to address maritime issues in favor of China . In the strategy for the future, the competition in the sea , as well as search for marine resources on a problem posed by China .In fact , also from the early twentieth century , China had formed the intent gaze Paracels and the Spratlys of Vietnam . Obviously, eyeing the Paracels , the Spratlys from Vietnam in the twentieth century strategy " encroaching " China's ambitions to expand national borders on the sea .On 26.05.1950 , the Korean War broke out, U.S. President Harry S. Truman ordered the 7th Fleet to the Taiwan Strait , blocking attacks targeting China over the Strait island Taiwan sea . With this action , the United States has actually protected Taiwan despite China vehemently condemned . Shown a determination to liberate Taiwan , dated 09/03/1954 , China attacked punishment for the coastal islands such as Kinmen , Matsu . Historians call this the Taiwan Strait crisis first .On 08/11/1954 , Chinese Premier Zhou Enlai said it would " liberate" Taiwan , and enhanced shelling two islands of Kinmen and Matsu .On 12/09/1954 , Chairman Joint USAF planned attack launched by China of nuclear weapons but President Eisenhower was hesitant to use nuclear weapons as well as the involvement of the U.S. military States in this war .1958 , continues to occur the Taiwan Strait crisis second . On 23/08/1958 dramatically enhance China shelled Jinmen . According to mutual defense treaty between Taiwan and the U.S. , President Eisenhower ordered U.S. warships to protect logistical supply lines from Taiwan island to island outpost 2 Kinmen and Matsu .Apart from the context " complex and urgent " for China as mentioned above , according to Master Hoang Vietnam ( East Sea Research Foundation ), the function of the 1958 Prime Minister Pham Van Dong was born in the context of specific relationships Meanwhile DRV - China " has both a fellow brother ." In 1949 Vietnam soldiers attacked and occupied the Truc Son of Chinese territory from forces other hand , then returned to the Chinese People's Liberation Army . In 1957 , China occupied the island of Bach Long Vi Vietnam from the hand of some other force , and then also returned to Vietnam . This shows the typical relationship of two DRV - China at that time. Thus , in the situation of China's territory is threatened separation , the Taiwan Strait crisis makes second U.S. Navy warship put into intervention , China's territorial claims to include Taiwan's first island to assert sovereignty over China's maritime threat in the situation in the Taiwan Strait . However, China has not forgotten the purpose of " deep " in the East Sea of them should have been " mainstreamed " two Paracels and the Spratlys of Vietnam in the statement .1958 diplomatic note of Prime Minister Pham Van Dong comes from a very specific relationship with China in the DRV time needed to enlist the support and help of the national socialist bloc and the time is a nice gesture diplomats represent the views of DRV support in respect of territorial waters 12 nautical miles ahead of the Chinese military complex movements on the Taiwan Strait .Prime Minister Pham Van Dong said China supported the words in extremely urgent situations , preparing to escalate the war , the U.S. 7th Fleet is moving into the Taiwan Strait and the China threat .Content The content of the 1958 Prime Minister Pham Van Dong also shown to be very careful , especially with no job relinquishes sovereignty of Vietnam towards the two archipelagos Hoang Sa and Truong Sa . Because , more than anyone else , understand the DRV Prime Minister the power to declare national territory under the authority of state power bodies of the National Assembly is the highest , and protect the integrity of the national territory is always the goal leading to the State and people of Vietnam , especially in the context of the introduction of the functions mentioned above .1958 diplomatic note has two very clear contents : One, the DRV Government recognizes and supports the expansion of China out 12 nautical miles territorial sea ; Second, the DRV Government directive to state agencies to respect the territorial limits 12 nautical miles which China claims .In The Function of Prime Minister Pham Van Dong did not have words , sentences referring to territorial issues and sovereignty , as any unnamed islands such as China stated. So , just in terms of words in a text diplomatic nature also easy to see that any interpretation Verbale 1958 relinquishes sovereignty of Vietnam towards the two archipelagos Hoang Sa and Truong Sa and see it as evidence that Vietnam acknowledged Chinese sovereignty on two islands are distorting history and absolutely no legal basis .At the San Francisco Conference in 1951 , the participating countries have rejected claims of Chinese sovereignty over the two archipelagoes of Hoang Sa and Truong Sa . Also at this conference , solemnly Vietnam claims the oldest and continuously on its two Paracels and Spratlys in plenary session without any objections or other comments to the all participating countries . That means that since 1951, the international community has recognized the sovereignty and legal history of Vietnam in two Paracels and Spratlys . The unilateral declaration of sovereignty of China for two islands under international law is null and void .1954 Geneva Agreement , which China is a formal , two acknowledged sovereignty over Hoang Sa and Truong Sa belong to Vietnam . The terms of the Agreement also requires countries attended the conference pledged to respect the independence, national unity and the background of the territorial integrity of Vietnam . Therefore, the statement on China 's sovereignty concerning two archipelagos Hoang Sa and Truong Sa of Vietnam in the statement dated 09.04.1958 on the basis of international legal course can not be considered effect .The function In 1958 , Prime Minister Pham Van Dong did not mention two Paracels and Spratlys . Because it is not necessary , because according to the 1954 Geneva Agreement , both Paracels and Spratlys lie south of the 17th parallel under the temporary management of the Government of the Republic of Vietnam ( ARVN ) . During that time , in terms of international tribunals , the DRV Government has no obligation to behave and sovereign rights in the two islands under international law .1958 diplomatic note of Prime Minister Pham Van Dong of course was endorsing the claims of Chinese content is legally recognized by the international community on the basis of international law for the time period. One part of the contents of the statement dated 04.09.1958 China has seriously violated the national sovereignty of the territory of Vietnam , also seriously violate the legal basis sovereign over two Paracels and Spratlys which the international community has recognized several times as well as a clever re- admit the sovereignty of Vietnam . DRV Government in the context of friendly relations with China are very specific to the position asserted recognized , endorsed claims 12 nautical mile limit of the territorial sea of ​​China , also the content specific interpretation beyond scope of territorial sovereignty of China in accordance with the international treaty has not been mentioned as a postulated or invalidity of it in the light of international law .Meanwhile, the government of South Vietnam , according to the 1954 Geneva Agreements , has continuous implementation of the long-standing sovereignty over the two archipelagos Vietnam Hoang Sa and Truong Sa by the state administrative documents as well as by the deployment execute real sovereignty over the two archipelagos . The peak of the Vietnam assert sovereignty over the two archipelagoes of Hoang Sa and Truong Sa in this stage is fierce sea battle against the South Vietnamese Navy 's warships and invaded China in aircraft Hoang Sa 1974.In historical context particularly evident above as a truism that Verbale dated 09/14/1958 of the Prime Minister Pham Van Dong simply recorded 12 nautical mile territorial sea of China, does not repeat the vague content related to these islands belong to Vietnam . In essence , the 1958 levels represent a political gesture , a gesture of friendship with claims territorial limit of 12 nautical miles from China . Food is absurd , if deliberately distorted interpretation and ( as argued by China ) , said that Prime Minister Pham Van Dong , the elite of the nation, to sign documents giving up territory and sovereignty while his own country and people of Vietnam fought hard to gain independence and freedom .Perhaps it should be emphasized that all the diplomatic action of the Prime Minister Pham Van Dong in 1958 Verbale can understand that he does not see any intentions of revolutionary China for Vietnam because he had experience in the Geneva talks in 1954, when China had no less detrimental move for the DRV . Content Verbale dated 14/09/1958 of the Prime Minister Pham Van Dong in accordance with the circumstances and the particular relationship between the DRV and China at that time , also implies an attitude of never giving up sovereignty Vietnam over the two archipelagos Hoang Sa and Truong Sa . It is also consistent view of Vietnam , by far since 1945 , the National Assembly of the Democratic Republic of Vietnam , the Republic of Vietnam National Assembly , Front DTGPMN Vietnam and later the Provisional Revolutionary Government Republic of South Vietnam and now Socialist Republic of Vietnam National Assembly has never sounded or a resolution to abandon Vietnam 's sovereignty over the two archipelagoes of Hoang Sa and Truong Sa .One more on the basis of the legal aspects , then DRV not directly manage for both the Paracels and Spratlys . Prior to 1975 , the national and territorial disputes , including: China , Taiwan , Republic of Vietnam and the Philippines . Thus, the DRV statement as a statement of a third country does not affect the dispute . However, the author has deliberately espoused the doctrine " estoppel " to deduce the statement that in effect forced to Vietnam .Under international law , there is not a legal document that can attach to a unilateral declaration binding properties , except theory " estoppel " . The main purpose of the case it prevents a country can benefit because of the inconsistency of his attitude , and therefore , cause damage to other countries . So estoppel must meet the following criteria : ( 1 ) The statement or action due to a person or agency representing national speech and speech must be transparent ; ( 2 ) Country complaint " estoppel " must prove that he relied on statements or activities of other countries , but there are certain activities , or activities ; ( 3 ) Country complaint " estoppel " must also prove that , in reliance on the statement of the other countries , they have been damaged , or that the other country has benefited as saying that statement ; ( 4 ) Many projects also require a statement or speech activity must be a continuous and long term . For example, the sentence " maritime delimitation in the Gulf of Maine " , the sentence " The military operations and paramilitaries in Nicaragua ," judgment " Preah Vihear Temple " ...Applying these principles of estoppel in the DRV statement , we see the lack of conditions 2 and 3 mentioned above . 1956 , 1958 and 1965, China did not have any attitude or behavior change as claims based on the DRV . China also can not prove that it suffered damages by relying on that statement . DRV also do not benefit when there are such claims .During the implementation process intrigues hegemony over the South China Sea , China has many times made ​​material misrepresentation of history, not a variable , turning nothing into something , hit a smokescreen to deliberately mislead official Chinese people as well as of the international community on this issue in favor of the intrigues of China . However, before the evidence of historical truth and the light of international law, the act of distorting , hit blind fire , deliberately making a false notion of international community increasingly apparent that for China plot tricks as well as during their intention to impose " swallowed " the South China Sea , in a " mouth spread peace not confess , hand complicate the situation ."

TIẾNG TRUNG QUỐC
Chinhphu.vn ) - 中国最近的外交照会援引1958年的总理范文同越南的“证据”已经NHAN中国的主权黄沙和长沙萨两个的群岛。但是,这是一个“回放”中国公众越南的过激行为有明确的内容分析于1958年证实了家具照会这段文字显示非常小心,尤其是没有放弃走向越南黄沙的主权和两个张庭选萨列岛。在这里,政府电子出版社文章,请引领“ 1958照会西沙群岛,南沙群岛越南”发表在大学联盟May 7/2011文章作者分析了蔡氏显然, 1958年的产能水平,以及点出中国的歪曲解释对于这样的文字:最近中国一直有争他们所谓宣示主权在黄沙和长沙萨两个的群岛。在日中国照会的解释内容14/9/1958总理范文同为越南有NHAN证据家具中国的主权黄沙和长沙萨两个的群岛是出于非常片面和歪曲的内容,含义响了外交照会,完全不熟悉越南国际法的法律基础,以及,无论当前历史背景下的客观现实。可以说,在1958年解释谗公司计算创造借口,一步合法化索赔TÌNH不合理的黄沙和南越的张庭选萨列岛步骤操作序列的函数。根据中国, 1958年9月4日的解释,中国总理周恩来曾公开宣光博国际中国政府于9月从中国和近海岛屿,包括西沙和南沙(即西沙群岛大陆12海里的决策和越南南沙) 。随后,于1958年9月14日,越南( DRV )范文同的首相民主共和国派遣了一张字条给周恩来总理,逐字如下:“亲爱的同志综合管理,我们很高兴地报告总同志明确原因:越南民主共和国政府承认和支持中国人民共和国决定中国的领海政府9月4日的1958年宣言。越南民主共和国政府尊重这项决定,并将直接负责的国家机构严格遵守的12海里领海的中国与中国国家海面中华人民共和国的一切关系。我们恭敬地送将军同志的问候升值。 它必须遵守上述响起​​中国的声明,以及在按照国际法领海更复杂的运动和紧迫性中国的背景下出台的DRV ,以及采取紧张的军事问题台湾海峡周围1956年,联合国开始进行国际会议讨论海洋法,然后一些协议于1958年签署,但尚未满足一些国家的领土要求。从早期的二十世纪,许多国家都开始重视对资源的巨大矿产资源和海洋资源,海洋表达的意向,以扩大其主权。中国,虽然在历史的兴趣在海中,并开始关注到扩展,在海上寻求特权。尽管它不是联合国的一员,但我也是中国开始注重与国际社会说话,以解决海上问题有利于中国的。在未来战略,在竞争中海,以及寻找海洋资源由中国提出了一个问题。其实,我也从早期的二十世纪,中国已形成了西沙群岛,越南的南沙的意图目光。显然,盯上了西沙群岛,南沙群岛越南在二十世纪战略“蚕食”中国的野心扩大国界的海面上。在1950年5月26日,朝鲜战争爆发后,美国总统杜鲁门下令第七舰队进驻台湾海峡,阻止针对中国在台湾海峡海岛的攻击。通过这项行动,美国实际上已经保护台湾尽管中国强烈谴责。所示的确定要解放台湾,日期为1954年3月9日,中国攻击惩罚新和成的金门,马祖沿海岛屿。史学家称此为第一次台海危机。于1954年11月8日,中国总理周恩来表示,将“解放”台湾,增强炮击金门,马祖两个岛屿。于1954年9月12日,由中国的核武器,但艾森豪威尔总统发起联合主席美国空军计划的攻击才吞吞吐吐地使用核武器,以及美军在这场战争中的国家参与。1958年继续出现了第二次台海危机。在1958年8月23日大幅提升中国炮击金门。据台湾和美国之间的共同防御条约,艾森豪威尔总统下令美国军舰保护后勤补给线在岛屿前哨2台湾金门,马祖。除了从上下文“复杂而紧迫”的中国如上所述,根据主晃越南(东海研究基金会) , 1958年的总理范文同的功能诞生于特定关系同时DRV的背景下 - 中国“这两种同系的兄弟了。 “ 1949年越南士兵袭击并占领中国领土的特鲁茨儿子从部队另一方面,则TRA给中国解放军。 1957年,中国占据白龙尾越南的岛屿从一些其他力量的手,然后我也TRA越南。这说明两个DRV的典型关系 - 中国家具的时候。因此,在中国的领土上的局势受到威胁分离,台海危机使得第二美国海军军舰投入干预,中国的领土要求,包括台湾第一岛主张主权,中国在台海局势的海上威胁。绥NHIEN ,中国还没有忘记的“深”在其中的东海之目的NEN被“主流化”两西沙群岛和越南在声明南沙群岛。1958外交照会总理范文同来自与中国在争取国家社会主义阵营和时间的支持和帮助所需要的DRV时间非常具体的关系是一个很好的姿态外交官đại演的DRV支持的意见就领海未来台湾海峡对中国的军事复杂运动的12海里。总理范文同表示,中国支持的话在极其紧急的情况,准备战争升级,美国第七舰队正在进入台湾海峡和中国的威胁。内容1958年总理范文同的内容我也证明是非常小心,尤其是没有工作放弃两个趋向越南黄沙和长沙萨列岛的主权。因为,比谁,了解DRV总理在国民议会的国家权力机关的权威申报国家领土的权力是最高的,保护国家领土的完整,是永远领先于国家目标,越南人民,特别是在引进上述功能的背景下。1958外交照会有两个非常明确的内容:一, DRV政府承认并支持扩展中国出12海里的领海;其次, DRV政府机构指令声明尊重领土范围DJO中国宣称12海里。在总理范文同的功能没有词,句指的是领土问题和主权,正如新和成中国任何未命名的岛屿。所以,只要在文本外交性质的家具的话来说也很容易看到放弃任何解释照会1958迈向越南黄沙列岛两个张庭Sa的主权,并把它看作越南已确认的证据家具中国主权上的两个岛屿被歪曲历史绝对没有任何法律依据。在1951年旧金山会议上,与会国家已经拒绝了中国的主权黄沙和长沙萨两个群岛一索赔。此外,在这次会议上,郑重越南声称在它的两个西沙和南沙群岛的历史最悠久,持续在全体会议上,没有任何反对意见或其他意见给所有参与国。这意味着家具自1951年以来,国际社会一直NHAN主权和越南两个西沙和南沙法律史。中国的主权根据国际法两个岛屿的单方面声明是无效的。九五四年日内瓦协议, DJO中国是一个正式的,两名已确认的主权黄沙和长沙萨属于越南。该协议时的条款也要求各国参加了会议承诺尊重独立,国家统一和越南的领土完整背景。因此,对中国主权关于其中两Sa和越南张庭选萨列岛晃在国际法律课程的基础上,日期为1958年9月4日的声明语句不能被视为有效。该功能在1958年,总理范文同没有提及两个西沙和南沙群岛的。因为它是没有必要的,因为根据1954年的日内瓦协议,双方西沙群岛和南沙群岛以南撒谎根据越南共和国(南越)政府的临时管理17平行。在响起的时候,在国际法庭方面, DRV政府没有义务的行为,并根据国际法的主权权利两个岛屿。1958外交照会,当然总理范文同被中国认可的内容是合法NHAN受到国际社会的国际法的时间段的基础上索赔。日期为1958年4月9日中国的声明内容的一部分严重违反越南的领土的国家主权,我也严重违反了法律依据主权在两个西沙和南沙DJO国际社会NHAN奥钢联的时间以及一个聪明重新承认越南的主权。 DRV政府在与中国的友好关系中非常具体的位置断言NHAN ,声称赞同中国的领海12海里界限,我也超出了中国的领土主权按照该范围的内容具体解释国际条约并未提及作为国际法的光假想或它的无效性。与此同时,南越政府,根据1954年日内瓦协议,具有持续实施长期两个群岛的主权黄沙和长沙萨越南由国家行政文件以及由部署执行真正的主权两个群岛。越南的峰值主张主权黄沙和长沙萨在这一阶段两个的群岛是激烈的海战反对南越海军的军舰和飞机黄沙侵略中国于1974年。在历史背景下为上述尤为明显照会家具不言而喻日期为14/09/1958总理范文同简单地记录中国的12海里领海,不重复有关这些岛屿的模糊的内容属于越南。从本质上说, 1958年各级政治đại演了个手势,以12海里中国索赔地域界限友好的表示。食品是荒谬的,如果刻意歪曲的解释和(由中国主张)表示,总理范文同家具,民族的精英,签署文件,而放弃领土和主权自己的国家和越南人民一直努力争取独立和自由。也许它强调家具嫩江总理范文同所有的外交行动在1958年照会家具能理解他并没有看到任何中国革命的意图越南,因为他于1954年在日内瓦会谈的经验,中国没有少KHI不利举动的DRV 。日的总理范文同为1958年9月14日照会内容根据具体情况和关系的DRV和中国在响时间,我也意味着永不放弃越南的主权黄沙列岛和两个态度张庭选萨。这也是越南的一致的看法,目前为止自1945年以来,在越南民主共和国,越南国民议会共和国,前DTGPMN越南临时革命政府和越南南方后来共和国和越南国家现在社会主义共和国国民议会议会从未响起或决议案放弃越南的主权黄沙和长沙萨两个的群岛。还有一个在法律方面的基础上,再DRV不直接管理的西沙和南沙群岛的两个。 1975年以前,国家和领土争端,包括:中国,台湾,越南共和国和菲律宾。因此, DRV语句作为第三国的陈述,不影响争议。绥NHIEN ,笔者特意信奉“禁止反言”原则来推断语句家具实际上迫使越南。根据国际法,没有一个法律文件,以CO附加单方面宣布绑定属性,除了理论“禁止反言” 。该案件的主要目的是防止一个国家能够受益,因为他的态度不一致,因此,造成损害的其他国家。所以秀翻供必须符合的标准:( 1 )本声明或行动由于一个人或机构代表国家讲话,讲话必须是透明的; ( 2 )国家投诉“禁止反言”家具必须证明他依靠报表或其他国家的活动,但也有某些活动,或活动; ( 3 )国家投诉“禁止反言”天宫必须证明真实的,在依赖于其他国家的说法,他们已损坏,或其他国家受益啦啦共同声明说; ( 4 )此外,许多项目都需要一个语句或演讲活动必须是持续的和长期的。例如,句子“海洋划界的缅因湾” ,这句话“的军事行动和准军事部队在尼加拉瓜, ”判决“柏威夏寺” ...在DRV声明禁止反言运用这些原则,我们看到和3的条件不足2上述。 1956年, 1958年和1965年,中国没有任何态度或行为变化的基础上, DRV索赔。中国也不能证明它遭受损害而家具家具依托声明。同时不利于DRV KHI CO CO索赔。在尔虞我诈的实施过程称霸中国南海,中国曾多次创造了历史的重大失实陈述,而不是一个变量,把什么到什么东西,打烟幕,故意误导官方中国人民以及国际社会上的这个问题有利于中国的阴谋。绥NHIEN ,历史真相的证据和国际法的光之前,扭曲的行为,打瞎火,故意令国际社会一个错误的概念,为中国家具越来越明显的情节技巧以及KHI他们的意图强加“吞噬”中国南海,在“口碑传播和平不承认,一方面使局势复杂化。 ”
Chinhphu.Vn) - zhōngguó zuìjìn de wàijiāo zhàohuì yuányǐn 1958 nián de zǒnglǐ fànwén tóng yuènán de “zhèngjù” yǐjīng NHAN zhōngguó de zhǔquán huáng shā hé zhǎngshā sà liǎng gè de qúndǎo. Dànshì, zhè shì yīgè “huífàng” zhōngguó gōngzhòng yuènán de guòjī xíngwéi yǒu míngquè de nèiróng fēnxī yú 1958 nián zhèngshíle jiājù zhàohuì zhè duàn wénzì xiǎnshì fēicháng xiǎoxīn, yóuqí shì méiyǒu fàngqì zǒuxiàng yuènán huáng shā de zhǔquán hé liǎng gè zhāngtíngxuǎn sà lièdǎo.
Zài zhèlǐ, zhèngfǔ diànzǐ chūbǎn shè wénzhāng, qǐng yǐnlǐng “1958 zhàohuì xīshā qúndǎo, nánshā qúndǎo yuènán” fābiǎo zài dàxué liánméng May 7/2011 wénzhāng zuòzhě fēnxīle càishì xiǎnrán, 1958 nián de chǎnnéng shuǐpíng, yǐjí diǎn chū zhōngguó de wāiqū jiěshì Duìyú zhèyàng de wénzì:

Zuìjìn zhōngguó yīzhí yǒu zhēng tāmen suǒwèi xuānshì zhǔquán zài huáng shā hé zhǎngshā sà liǎng gè de qúndǎo. Zài rì zhōngguó zhàohuì de jiěshì nèiróng 14/9/1958 zǒnglǐ fànwén tóng wèi yuènán yǒu NHAN zhèngjù jiājù zhōngguó de zhǔquán huáng shā hé zhǎngshā sà liǎng gè de qúndǎo shì chū yú fēicháng piànmiàn hé wāiqū de nèiróng, hányì xiǎngle wàijiāo zhàohuì, Wánquán bù shúxī yuènán guójìfǎ de fǎlǜ jīchǔ, yǐjí, wúlùn dāngqián lìshǐ bèijǐng xià de kèguān xiànshí. Kěyǐ shuō, zài 1958 nián jiěshì chán gōngsī jìsuàn chuàngzào jièkǒu, yībù héfǎ huà suǒpéi TÌNH bù hélǐ de huáng shā hé nányuè de zhāngtíngxuǎn sà lièdǎo bùzhòu cāozuò xùliè de hánshù.

Gēnjù zhōngguó, 1958 nián 9 yuè 4 rì de jiěshì, zhōngguó zǒnglǐ zhōu'ēnlái céng gōngkāi xuān guāngbó guójì zhōngguó zhèngfǔ yú 9 yuè cóng zhōngguó hé jìnhǎi dǎoyǔ, bāokuò xīshā hé nánshā (jí xīshā qúndǎo dàlù 12 hǎilǐ de juécè hé Yuènán nánshā). Suíhòu, yú 1958 nián 9 yuè 14 rì, yuènán (DRV) fànwén tóng de shǒuxiàng mínzhǔ gònghéguó pàiqiǎnle yī zhāng zìtiáo gěi zhōu'ēnlái zǒnglǐ, zhú zì rúxià:

“Qīn'ài de tóngzhì zònghé guǎnlǐ,

Wǒmen hěn gāoxìng dì bàogào zǒng tóngzhì míngquè yuányīn: Yuènán mínzhǔ gònghéguó zhèngfǔ chéngrèn hé zhīchí zhōngguó rénmín gònghéguó juédìng zhōngguó de lǐnghǎi zhèngfǔ 9 yuè 4 rì de 1958 nián xuānyán.

Yuènán mínzhǔ gònghéguó zhèngfǔ zūnzhòng zhè xiàng juédìng, bìng jiāng zhíjiē fùzé de guójiā jīgòu yángé zūnshǒu de 12 hǎilǐ lǐnghǎi de zhōngguó yǔ zhōngguó guójiā hǎimiàn zhōnghuá rénmín gònghéguó de yīqiè guānxì. Wǒmen gōngjìng de sòng jiāngjūn tóngzhì de wènhòu shēngzhí. “

Tā bìxū zūnshǒu shàngshù xiǎngqǐ​​zhōngguó de shēngmíng, yǐjí zài ànzhào guójìfǎ lǐnghǎi gèng fùzá de yùndòng hé jǐnpò xìng zhòng guó de bèijǐng xià chūtái de DRV, yǐjí cǎiqǔ jǐnzhāng de jūnshì wèntí táiwān hǎixiá zhōuwéi .

1956 Nián, liánhéguó kāishǐ jìnxíng guójì huìyì tǎolùn hǎiyáng fǎ, ránhòu yīxiē xiéyì yú 1958 nián qiānshǔ, dàn shàngwèi mǎnzú yīxiē guójiā de lǐngtǔ yāoqiú.

Cóng zǎoqí de èrshí shìjì, xǔduō guójiā dōu kāishǐ zhòngshì duì zīyuán de jùdà kuàngchǎn zīyuán hé hǎiyáng zīyuán, hǎiyáng biǎodá de yìxiàng, yǐ kuòdà qí zhǔquán. Zhōngguó, suīrán zài lìshǐ de xìngqù zài hǎizhōng, bìng kāishǐ guānzhù dào kuòzhǎn, zài hǎishàng xúnqiú tèquán. Jǐnguǎn tā bùshì liánhéguó de yī yuán, dàn wǒ yěshì zhōngguó kāishǐ zhùzhòng yǔ guójì shèhuì shuōhuà, yǐ jiějué hǎishàng wèntí yǒu lìyú zhōngguó de. Zài wèilái zhànlüè, zài jìngzhēng zhōnghǎi, yǐjí xúnzhǎo hǎiyáng zīyuán yóu zhōngguó tíchūle yīgè wèntí.

Qíshí, wǒ yě cóng zǎoqí de èrshí shìjì, zhōngguó yǐ xíngchéngle xīshā qúndǎo, yuènán de nánshā de yìtú mùguāng. Xiǎnrán, dīng shàngle xīshā qúndǎo, nánshā qúndǎo yuènán zài èrshí shìjì zhànlüè “cánshí” zhōngguó de yěxīn kuòdà guójiè dì hǎimiàn shàng.

Zài 1950 nián 5 yuè 26 rì, cháoxiǎn zhànzhēng bàofā hòu, měiguó zǒngtǒng dùlǔmén xiàlìng dì qī jiànduì jìnzhù táiwān hǎixiá, zǔzhǐ zhēnduì zhōngguó zài táiwān hǎixiá hǎidǎo de gōngjí. Tōngguò zhè xiàng xíngdòng, měiguó shíjì shang yǐjīng bǎohù táiwān jǐnguǎn zhōngguó qiángliè qiǎnzé. Suǒ shì dí quèdìng yào jiěfàng táiwān, rìqí wèi 1954 nián 3 yuè 9 rì, zhōngguó gōngjí chéngfá xīn hé chéng de jīnmén, mǎzǔ yánhǎi dǎoyǔ. Shǐxué jiā chēng cǐ wéi dì yī cì táihǎi wéijī.

Yú 1954 nián 11 yuè 8 rì, zhōngguó zǒnglǐ zhōu'ēnlái biǎoshì, jiāng “jiěfàng” táiwān, zēngqiáng pàojī jīnmén, mǎzǔ liǎng gè dǎoyǔ.

Yú 1954 nián 9 yuè 12 rì, yóu zhōngguó de héwǔqì, dàn àisēnháowēi'ěr zǒngtǒng fāqǐ liánhé zhǔxí měiguó kōngjūn jìhuà de gōngjí cái tūntūntǔtǔ dì shǐyòng héwǔqì, yǐjí měijūn zài zhè chǎng zhànzhēng zhōng de guójiā cānyù.

1958 Nián jìxù chūxiànle dì èr cì táihǎi wéijī. Zài 1958 nián 8 yuè 23 rì dàfú tíshēng zhōngguó pàojī jīnmén. Jù táiwān hé měiguó zhī jiān de gòngtóng fángyù tiáoyuē, àisēnháowēi'ěr zǒngtǒng xiàlìng měiguó jūnjiàn bǎohù hòuqín bǔjǐxiàn zài dǎoyǔ qiánshào 2 táiwān jīnmén, mǎzǔ.

Chúle cóng shàngxiàwén “fùzá ér jǐnpò” de zhōngguó rúshàng suǒ shù, gēnjù zhǔ huǎng yuènán (dōnghǎi yánjiū jījīn huì), 1958 nián de zǒnglǐ fànwén tóng de gōngnéng dànshēng yú tèdìng guānxì tóngshí DRV de bèijǐng xià - zhōngguó “ Zhè liǎng zhǒng tóngxì de xiōngdìle. “ 1949 Nián yuènán shìbīng xíjí bìng zhànlǐng zhōngguó lǐngtǔ de tè lǔ cí érzi cóng bùduì lìng yī fāngmiàn, zé TRA gěi zhōngguó jiěfàngjūn. 1957 Nián, zhōngguó zhànjù bái lóng wěi yuènán de dǎoyǔ cóng yīxiē qítā lìliàng de shǒu, ránhòu wǒ yě TRA yuènán. Zhè shuōmíng liǎng gè DRV de diǎnxíng guānxì - zhōngguó jiājù de shíhòu. Yīncǐ, zài zhōngguó de lǐngtǔ shàng de júshì shòudào wēixié fēnlí, táihǎi wéijī shǐdé dì èr měiguó hǎijūn jūnjiàn tóurù gānyù, zhōngguó de lǐngtǔ yāoqiú, bāokuò táiwān dì yī dǎo zhǔzhāng zhǔquán, zhōngguó zài táihǎi júshì dì hǎishàng wēixié. Suí NHIEN, zhōngguó hái méiyǒu wàngjì de “shēn” zài qízhōng de dōnghǎi zhī mùdì NEN bèi “zhǔliú huà” liǎng xīshā qúndǎo hé yuènán zài shēngmíng nánshā qúndǎo.

1958 Wàijiāo zhàohuì zǒnglǐ fànwén tóng láizì yǔ zhōngguó zài zhēngqǔ guójiā shèhuì zhǔyì zhènyíng hé shíjiān de zhīchí hé bāngzhù suǒ xūyào de DRV shíjiān fēicháng jùtǐ de guānxì shì yīgè hěn hǎo de zītài wàijiāo guān đại yǎn de DRV zhīchí de yìjiàn jiù Lǐnghǎi wèilái táiwān hǎixiá duì zhōngguó de jūnshì fùzá yùndòng de 12 hǎilǐ.

Zǒnglǐ fànwén tóng biǎoshì, zhōngguó zhīchí dehuà zài jíqí jǐnjí de qíngkuàng, zhǔnbèi zhànzhēng shēngjí, měiguó dì qī jiànduì zhèngzài jìnrù táiwān hǎixiá hé zhōngguó de wēixié.

Nèiróng 1958 nián zǒnglǐ fànwén tóng de nèiróng wǒ yě zhèngmíng shì fēicháng xiǎoxīn, yóuqí shì méiyǒu gōngzuò fàngqì liǎng gè qūxiàng yuènán huáng shā hé zhǎngshā sà lièdǎo de zhǔquán. Yīnwèi, bǐ shuí, liǎojiě DRV zǒnglǐ zài guómín yìhuì de guójiā quánlì jīguān de quánwēi shēnbào guójiā lǐngtǔ de quánlì shì zuìgāo de, bǎohù guójiā lǐngtǔ de wánzhěng, shì yǒngyuǎn lǐngxiān yú guójiā mùbiāo, Yuènán rénmín, tèbié shì zài yǐnjìn shàngshù gōngnéng de bèijǐng xià.

1958 Wàijiāo zhàohuì yǒu liǎng gè fēicháng míngquè de nèiróng: Yī, DRV zhèngfǔ chéngrèn bìng zhīchí kuòzhǎn zhōngguó chū 12 hǎilǐ de lǐnghǎi; Qícì, DRV zhèngfǔ jīgòu zhǐlìng shēngmíng zūnzhòng lǐngtǔ fànwéi DJO zhōngguó xuānchēng 12 hǎilǐ.

Zài zǒnglǐ fànwén tóng de gōngnéng méiyǒu cí, jù zhǐ de shì lǐngtǔ wèntí hé zhǔquán, zhèngrú xīn hé chéng zhōngguó rènhé wèi mìngmíng de dǎoyǔ. Suǒyǐ, zhǐyào zài wénběn wàijiāo xìngzhì de jiājù dehuà lái shuō yě hěn róngyì kàn dào fàngqì rènhé jiěshì zhàohuì 1958 mài xiàng yuènán huáng shā lièdǎo liǎng gè zhāng tíng Sa de zhǔquán, bìng bǎ tā kàn zuò yuènán yǐ quèrèn de zhèngjù jiājù zhōngguó zhǔquán shàng de liǎng gè dǎoyǔ bèi wāiqū lìshǐ Juéduì méiyǒu rènhé fǎlǜ yījù.

Zài 1951 nián jiùjīnshān huìyì shàng, yùhuì guójiā yǐjīng jùjuéle zhōngguó de zhǔquán huáng shā hé zhǎngshā sà liǎng gè qúndǎo yī suǒpéi. Cǐwài, zài zhè cì huìyì shàng, zhèngzhòng yuènán shēngchēng zài tā de liǎng gè xīshā hé nánshā qúndǎo de lìshǐ zuì yōujiǔ, chíxù zài quántǐ huìyì shàng, méiyǒu rènhé fǎnduì yìjiàn huò qítā yìjiàn gěi suǒyǒu cānyù guó. Zhè yìwèizhe jiājù zì 1951 nián yǐlái, guójì shèhuì yīzhí NHAN zhǔquán hé yuènán liǎng gè xīshā hé nánshā fǎlǜ shǐ. Zhōngguó de zhǔquán gēnjù guójìfǎ liǎng gè dǎoyǔ de dān fāngmiàn shēngmíng shì wúxiào de.

Jiǔwǔsì nián rìnèiwǎ xiéyì, DJO zhōngguó shì yīgè zhèngshì de, liǎng míng yǐ quèrèn de zhǔquán huáng shā hé zhǎngshā sà shǔyú yuènán. Gāi xiéyì shí de tiáokuǎn yě yāoqiú gèguó cānjiāle huìyì chéngnuò zūnzhòng dúlì, guójiā tǒngyī hè yuènán de lǐngtǔ wánzhěng bèijǐng. Yīncǐ, duì zhōngguó zhǔquán guānyú qízhōng liǎng Sa hé yuènán zhāngtíngxuǎn sà lièdǎo huǎng zài guójì fǎlǜ kèchéng de jīchǔ shàng, rìqí wèi 1958 nián 9 yuè 4 rì de shēngmíng yǔjù bùnéng bèi shì wéi yǒuxiào.

Gāi gōngnéng zài 1958 nián, zǒnglǐ fànwén tóng méiyǒu tí jí liǎng gè xīshā hé nánshā qúndǎo de. Yīnwèi tā shì méiyǒu bìyào de, yīnwèi gēnjù 1954 nián de rìnèiwǎ xiéyì, shuāngfāng xīshā qúndǎo hé nánshā qúndǎo yǐ nán sāhuǎng gēnjù yuènán gònghéguó (nányuè) zhèngfǔ de línshí guǎnlǐ 17 píngxíng. Zài xiǎngqǐ de shíhòu, zài guójì fǎtíng fāngmiàn, DRV zhèngfǔ méiyǒu yìwù de xíngwéi, bìng gēnjù guójìfǎ de zhǔquán quánlì liǎng gè dǎoyǔ.

1958 Wàijiāo zhàohuì, dāngrán zǒnglǐ fànwén tóng bèi zhōngguó rènkě de nèiróng shì héfǎ NHAN shòudào guójì shèhuì de guójìfǎ de shíjiān duàn de jīchǔ shàng suǒpéi. Rìqí wèi 1958 nián 4 yuè 9 rì zhōngguó de shēngmíng nèiróng de yībùfèn yánzhòng wéifǎn yuènán de lǐngtǔ de guójiā zhǔquán, wǒ yě yánzhòng wéifǎnle fǎlǜ yījù zhǔquán zài liǎng gè xīshā hé nánshā DJO guójì shèhuì NHAN ào gāng lián de shíjiān yǐjí yīgè cōngmíng Chóngxīn chéngrèn yuènán de zhǔquán. DRV zhèngfǔ zài yǔ zhōngguó de yǒuhǎo guānxì zhōng fēicháng jùtǐ de wèizhì duànyán NHAN, shēngchēng zàntóng zhōngguó de lǐnghǎi 12 hǎilǐ jièxiàn, wǒ yě chāochūle zhōngguó de lǐngtǔ zhǔquán ànzhào gāi fànwéi de nèiróng jùtǐ jiěshì Guójì tiáoyuē bìng wèi tí jí zuòwéi guójìfǎ de guāng jiǎxiǎng huò tā de wúxiào xìng.

Yǔ cǐ tóngshí, nányuè zhèngfǔ, gēnjù 1954 nián rìnèiwǎ xiéyì, jùyǒu chíxù shíshī chángqí liǎng gè qúndǎo de zhǔquán huáng shā hé zhǎngshā sà yuènán yóu guójiā xíngzhèng wénjiàn yǐjí yóu bùshǔ zhíxíng zhēnzhèng de zhǔquán Liǎng gè qúndǎo. Yuènán de fēngzhí zhǔzhāng zhǔquán huáng shā hé zhǎngshā sà zài zhè yī jiēduàn liǎng gè de qúndǎo shì jīliè dì hǎizhàn fǎnduì nányuè hǎijūn de jūnjiàn hé fēijī huáng shā qīnlüè zhōngguó yú 1974 nián.

Zài lìshǐ bèijǐng xià wéi shàngshù yóuwéi míngxiǎn zhàohuì jiājù bù yán ér yù rìqí wèi 14/09/1958 zǒnglǐ fànwén tóng jiǎndān dì jìlù zhōngguó de 12 hǎilǐ lǐnghǎi, bù chóngfù yǒuguān zhèxiē dǎoyǔ de móhú de nèiróng shǔyú yuènán. Cóng běnzhí shàng shuō, 1958 nián gè jí zhèngzhì đại yǎnle gè shǒushì, yǐ 12 hǎilǐ zhōngguó suǒpéi dìyù jièxiàn yǒuhǎo de biǎoshì. Shípǐn shì huāngmiù de, rúguǒ kèyì wāiqū de jiěshì hé (yóu zhōngguó zhǔzhāng) biǎoshì, zǒnglǐ fànwén tóng jiājù, mínzú de jīngyīng, qiānshǔ wénjiàn, ér fàngqì lǐngtǔ hé zhǔquán zìjǐ de guójiā hé yuènán rénmín yīzhí nǔlì zhēngqǔ Dúlì hé zìyóu.

Yěxǔ tā qiángdiào jiājù nènjiāng zǒnglǐ fànwén tóng suǒyǒu de wàijiāo xíngdòng zài 1958 nián zhàohuì jiājù néng lǐjiě tā bìng méiyǒu kàn dào rènhé zhōngguó gémìng de yìtú yuènán, yīnwèi tā yú 1954 nián zài rìnèiwǎ huìtán de jīngyàn, zhōngguó méiyǒu shǎo KHI Bùlì jǔdòng de DRV. Rì de zǒnglǐ fànwén tóng wèi 1958 nián 9 yuè 14 rì zhàohuì nèiróng gēnjù jùtǐ qíngkuàng hé guānxì de DRV hé zhōngguó zài xiǎng shíjiān, wǒ yě yìwèizhe yǒng bù fàngqì yuènán de zhǔquán huáng shā lièdǎo hé liǎng gè tàidù Zhāngtíngxuǎn sà. Zhè yěshì yuènán de yīzhì de kànfǎ, mùqián wéizhǐ zì 1945 nián yǐlái, zài yuènán mínzhǔ gònghéguó, yuènán guómín yìhuì gònghéguó, qián DTGPMN yuènán línshí gémìng zhèngfǔ hé yuènán nánfāng hòulái gònghéguó hé yuènán guójiā xiànzài shèhuì zhǔyì gònghéguó guómín yìhuì Yìhuì cóng wèi xiǎngqǐ huò juéyì àn fàngqì yuènán de zhǔquán huáng shā hé zhǎngshā sà liǎng gè de qúndǎo.

Hái yǒu yīgè zài fǎlǜ fāngmiàn de jīchǔ shàng, zài DRV bù zhíjiē guǎnlǐ de xīshā hé nánshā qúndǎo de liǎng gè. 1975 Nián yǐqián, guójiā hé lǐngtǔ zhēngduān, bāokuò: Zhōngguó, táiwān, yuènán gònghéguó hé fēilǜbīn. Yīncǐ, DRV yǔjù zuòwéi dì sānguó de chénshù, bù yǐngxiǎng zhēngyì. Suí NHIEN, bǐzhě tèyì xìnfèng “jìnzhǐ fǎn yán” yuánzé lái tuīduàn yǔjù jiājù shíjì shang pòshǐ yuènán.

Gēnjù guójìfǎ, méiyǒu yīgè fǎlǜ wénjiàn, yǐ CO fùjiā dān fāngmiàn xuānbù bǎng dìng shǔxìng, chúle lǐlùn “jìnzhǐ fǎn yán”. Gāi ànjiàn de zhǔyào mùdì shì fángzhǐ yīgè guójiā nénggòu shòuyì, yīnwèi tā de tàidù bùyīzhì, yīncǐ, zàochéng sǔnhài de qítā guójiā. Suǒyǐ xiù fāngòng bìxū fúhé de biāozhǔn:(1 ) Běn shēngmíng huò xíngdòng yóuyú yīgè rén huò jīgòu dàibiǎo guójiā jiǎnghuà, jiǎnghuà bìxū shì tòumíng de; (2 ) Guójiā tóusù “jìnzhǐ fǎn yán” jiājù bìxū zhèngmíng tā yīkào bàobiǎo huò qítā guójiā de huódòng, dàn yěyǒu mǒu xiē huódòng, huò huódòng; (3 ) Guójiā tóusù “jìnzhǐ fǎn yán” tiāngōng bìxū zhèngmíng zhēnshí de, zài yīlài yú qítā guójiā de shuōfǎ, tāmen yǐ sǔnhuài, huò qítā guójiā shòuyì lā lā gòngtóng shēngmíng shuō; (4 ) Cǐwài, xǔduō xiàngmù dōu xūyào yīgè yǔjù huò yǎnjiǎng huódòng bìxū shì chíxù de hé chángqí de. Lìrú, jùzi “hǎiyáng huà jiè de miǎn yīn wān”, zhè jù huà “de jūnshì xíngdòng hé zhǔn jūnshì bùduì zài níjiālāguā, ” pànjué “bǎi wēi xià sì”...

Zài DRV shēngmíng jìnzhǐ fǎn yán yùnyòng zhèxiē yuánzé, wǒmen kàn dào hé 3 de tiáojiàn bùzú 2 shàngshù. 1956 Nián, 1958 nián hé 1965 nián, zhōngguó méiyǒu rènhé tàidù huò xíngwéi biànhuà de jīchǔ shàng, DRV suǒpéi. Zhōngguó yě bùnéng zhèngmíng tā zāoshòu sǔnhài ér jiājù jiājù yītuō shēngmíng. Tóngshí bù lìyú DRV KHI CO CO suǒpéi.

Zài ěryúwǒzhà de shíshī guòchéng chēngbà zhōngguó nánhǎi, zhōngguó céng duō cì chuàngzàole lìshǐ de zhòngdà shīshí chénshù, ér bùshì yīgè biànliàng, bǎ shénme dào shénme dōngxī, dǎ yānmù, gùyì wùdǎo guānfāng zhōngguó rénmín yǐjí guójì shèhuì shàng de Zhège wèntí yǒu lìyú zhōngguó de yīnmóu. Suí NHIEN, lìshǐ zhēnxiàng de zhèngjù hé guójìfǎ de guāng zhīqián, niǔqū de xíngwéi, dǎ xiā huǒ, gùyì lìng guójì shèhuì yīgè cuòwù de gàiniàn, wéi zhōngguó jiājù yuè lái yuè míngxiǎn de qíngjié jìqiǎo yǐjí KHI tāmen de yìtú qiángjiā “tūnshì” Zhōngguó nánhǎi, zài “kǒubēi chuánbò hépíng bù chéngrèn, yī fāngmiàn shǐ júshì fùzá huà. ”
 

Đăng nhận xét

Breaking