Ngoài những tướng lĩnh tài danh, nhà Trần đã xây dựng được một quân đội tinh nhuệ và một sức mạnh của sự nhất trí của toàn dân.
Binh tuy ít nhưng dũng mãnh
Năm Mậu
Tý, niên hiệu Trùng Hưng thứ 4 (1288), sau khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn chiến thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, bắt được tướng nhà
Nguyên là lũ Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ Ngọc... vua Trần Nhân
Tông cùng với quần thần mới đến Chiêu lăng của Thượng hoàng (Trần Thái
Tông) làm lễ báo tiệp và dâng tù binh. Vua Trần Nhân Tông thấy ngựa đá
trong lăng đều có vấy bùn thì cảm tưởng như Thượng hoàng hiển linh phá
giặc, mới ứng khẩu hai câu thơ: "Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã/Sơn hà
thiên cổ điện kim âu" (Xã tắc hai phen bon ngựa đá/Giang sơn muôn thuở
vững âu vàng).
Nhà vua
trong buổi khải hoàn đã nghĩ đến tổ tiên, đất nước mà quên hẳn sự thành
công ấy phải nào phải là một việc hiển linh, phần lớn là ở tại lòng
quân, dân lúc ấy đã muôn lòng như một.
Mùa
đông niên hiệu Thiệu Bảo thứ 6 (1284), vua Trần Nhân Tông thấy quân
Nguyên giả vờ mượn đường đánh Chiêm Thành, có ý dòm ngó nước ta, thế
giặc rất mạnh mới họp các phụ lão tại điện Diên Hồng để hỏi kế phá giặc.
Các phụ lão đều trả lời hăng hái, quyết chiến. Đối với binh lực lúc ấy,
tuy còn rất ít, nhưng rất dũng mãnh. Binh pháp có câu "Quân quý hồ
tinh, bất quý hồ đa". Binh lính nhà Trần lúc ấy đã có tổ chức và luyện
tập chu đáo.
Phòng lúc có chiến sự để điều binh
Vua
Trần Thái Tông (1225 - 1258) sau khi được thiên hạ đã quan tâm đến việc
biên chế binh sĩ. Năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 8 (1239), tuyển đinh
tráng ở các châu, lộ, định làm ba hạng: Thượng, trung, hạ tuỳ theo sức
khoẻ của từng người. Năm Tân Sửu (1241) lại tuyển những người có dũng
lược, võ nghệ sung vào đội quân cấm vệ.
Năm
Thiên Ứng Chính Bình 11 (1242), Đại Việt được chia làm 12 lộ, đầu mỗi lộ
đặt hai quan an trấn, chánh phó sứ coi cả việc binh trong lộ. Khi quân
lính đã tại ngũ phải đặt hiệu để phân biệt. Đến năm Bính Ngọ (1246) có
các quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần; các vệ: Thiên Trường, Long Hưng.
Lại đặt ra Thiên Thuộc, Thiên Cương, Chương Thánh, Củng Thời.
Hai lộ
Hồng Châu, Khoái Lộ gọi là Tả Hữu Thánh dực quân, Trường An và Kiến
Xương làm Thánh dực, Thần sách quân, còn thì sung vào cấm vệ, cấm quân
và các đoàn đội.
Đến đời
Trần Thánh Tông (1258 - 1278), niên hiệu Thiệu Long thứ 4 (1261) theo
phép cũ lại tuyển tráng đinh ở các lộ, châu, huyện làm lính. Đến tháng
ba năm Nhâm Tuất (1262) muốn rõ binh lực trong nước, nhà vua lệnh thao
diễn thuỷ bộ chư quân và chiến thuyền ở sông Bạch Hạc (vùng Vĩnh Yên).
Từ năm
Đinh Mão (1267) số quân được ấn định: Mỗi quân có 30 đô, mỗi đô có 80
người lính. Hai đời trước tuy việc quân đã xếp đặt có trật tự, đến đời
vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293) vì thấy thế lực Mông Cổ ngày một hùng
mạnh, nên sau khi lên ngôi, tháng 2 năm Canh Thìn (1280), nhà vua xuống
chỉ truyền xét hết cả số dân đinh trong nước để biết rõ số tráng đinh có
bao nhiêu phòng lúc có chiến sự để điều binh. Năm Tân Tỵ (1281) nhà vua
lập ra Thiên Trường vũ học chuyên dạy văn, võ cho dân đinh hạt Thiên
Trường (là ấp thang mộc nhà Trần) kén lấy quân thân thuộc để sau này
sung vào đội quân Thiên thuộc của nhà vua.
Người đưa tin ,tổng hợp.....

Đăng nhận xét