Chỉ với ít tàu thuyền nhưng với tinh thần ngoan cường, các chiến sĩ Hải quân Việt Nam đã giữ vững chủ quyền tổ quốc ở Trường Sa
.
.
25 năm trận hải chiến Trường Sa
Trường Sa
là một quần đảo gồm trên 100 đảo và bãi đá lớn nhỏ, phân bố trong một
vùng biển rộng đến 180.000 km2 ngoài khơi Biển Đông thuộc chủ quyền nước
ta. Từ thời các đảo này còn là hoang vu, các triều đại phong kiến Việt
Nam đã thực hiện việc quản lý, khai thác trên quần đảo này. Việc khai
thác, quản lý quần đảo Trường Sa được người Việt thực hiện liên tục cho
đến ngày nay là một sự thật lịch sử không thể chối cãi.
Theo Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam:
“Trong những tháng đầu năm 1988, nước ngoài (là Trung Quốc – TG) cho
quân chiếm đóng một số bãi đá thuộc khu vực quần đảo Trường Sa… hải
quân nước ngoài sau khi chiếm giữ trái phép Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ,
Ga Ven và Xu Bi cũng đang ý đồ chiếm giữ ba đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao
nhằm gây thanh thế ở khu vực Trường Sa và trên biển Đông”. Cũng theo
tài liệu này, đến tháng 3/1988, lực lượng tàu chiến của “nước ngoài”
hoạt động tại khu vực Trường Sa thường xuyên duy trì từ 9 đến 12 tàu.
Trong khi đó, để bảo vệ các bãi đá, lực lượng ta chỉ có 3 tàu gồm tàu
HQ-605 bảo vệ bãi Len Đao, HQ-604 bảo vệ bãi Gạc Ma và HQ-505 bảo vệ bãi
Cô Lin.
| Tàu HQ604 trước khi ra đảo Gạc Ma. Ảnh tư liệu của lữ đoàn Hải Quân 125. |
Sáng 13/3/1988, sau khi hai tàu của ta
đến neo đậu tại bãi Gạc Ma và Cô Lin được chừng 30 phút thì tàu của
Trung Quốc xuất hiện và áp sát tàu HQ-604 rồi gọi loa khiêu khích. Cán
bộ, chiến sĩ ta động viên nhau giữ vững quyết tâm không để mắc mưu, kiên
trì neo giữ quanh đảo. Phía ngoài, các tàu chiến, tàu hộ vệ, tàu vận
tải của Trung Quốc thay nhau cơ động chạy quanh đảo Gạc Ma. Để bảo vệ
đảo, quân ta thả xuồng đưa vật liệu lên làm nhà trên đảo và cắm cờ tổ
quốc ngay trong đêm 13/3. Sáng 14/3, sau khi có thêm 2 tàu pháo đến,
quân Trung Quốc tiếp tục khiêu khích và đe dọa dùng vũ lực.
6 giờ ngày 14/3/1988, đối phương cho
thuyền nhôm đổ bộ quân lên đảo Gạc Ma rồi tiến vào giật cờ của ta. Để
bảo vệ cờ, quân ta đã chống trả quyết liệt nhưng địch đông nên 2 chiến
sĩ đã hy sinh. Không uy hiếp được quân ta rút khỏi đảo, 7 giờ 30 phút
ngày 14/3, đối phương dùng hai tàu pháo bắn hỏng nặng tàu 604 của ta.
Tiếp theo, quân địch xông về phía tàu ta nhưng bị bộ đội trên tàu đánh
trả quyết liệt khiến chúng phải nhảy xuống biển bơi về tàu của chúng.
Đối phương tiếp tục nã đạn, làm tàu ta bị thủng nhiều lỗ và hỏng nặng
chìm dần xuống biển.
Cũng trong ngày 14/3, tại đảo Cô Lin
và Len Đao, tàu HQ-505 và HQ-605 bị tàu địch bắn dữ dội. HQ-505 bị cháy
khi mới trườn được 2/3 thân tàu lên đảo Cô Lin còn tàu HQ-605 bị bắn
cháy và chìm vào sáng 15/3. Kết thúc trận chiến, theo Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam,
ta bị tổn thất: 3 tàu bị bắn cháy và chìm, 3 đồng chí hy sinh, 11 đồng
chí bị thương, 70 đồng chí bị mất tích. (Sau này, đối phương trao trả ta
9 đồng chí, còn 61 người mất tích).
Công cuộc giữ đảo sau sự kiện Gạc Ma
Để bảo vệ chủ quyền tổ quốc ở đảo
Trường Sa, Đảng, Nhà nước đã huy động mọi nguồn lực sẵn có. Theo thống
kê của quân chủng Hải Quân, trong năm 1988, cùng với việc tăng cường vũ
khí trang bị cho các đảo, Chính phủ đã cấp cho Hải quân hơn 5000 tấn
thép cùng hàng nghìn tấn vật liệu khác như xi măng, cát, gỗ, vải bạt… để
Hải quân đẩy mạnh việc xây dựng nhà trên các đảo chìm. Chính phủ còn
giao cho Bộ Giao thông Vận tải thiết kế xây dựng cầu tàu ở đảo Trường
Sa, lắp pin mặt trời cho các điểm đảo cùng một số bộ video casset cho bộ
đội ở đảo.
Bên cạnh đó, được sự chỉ đạo của Trung
ương, nhiều tỉnh thành đã ủng hộ vào công việc xây dựng nhà ở Trường
Sa. Nhờ tập trung mọi nguồn lực, động viên toàn dân hướng về Trường Sa,
đến cuối tháng 8/1988, ta đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng các loại
nhà cấp 1, 2, 3, nâng tổng số lên 21 đảo và bãi đá ngầm với 32 điểm đóng
giữ, hình thành 5 cụm đảo; đồng thời tập trung củng cố cơ sở bảo đảm ở
các đảo trung tâm của từng cụm gồm: Song Tử, Nam Yết, Trường Sa, Phan
Vinh, Thuyền Chài. Các đảo được tăng cường quân số, hỏa lực, công trình
phòng thủ, tạo thành thế chiến đấu liên hoàn từng cụm đảo trong thế trận
phòng thủ chung, góp phần bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền vùng biển, thềm
lục địa và vùng kinh tế đặc quyền của Tổ quốc.
Việc bảo vệ chủ quyền ở Trường Sa nói
riêng và bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc nói chung đã thu hút được
sự quan tâm của toàn dân. Nhiều thư từ động viên được gửi đến các chiến
sĩ đang đóng nơi đảo xa. Nhiều sáng kiến khoa học kỹ thuật được gửi đến
cơ quan chức năng để giúp bộ đội ở Trường Sa thực hiện tốt nhiệm vụ bảo
vệ chủ quyền. Điển hình nhất là đầu năm 2012, công ty Thạch Anh ở
TP.HCM đã nghiên cứu và thử nghiệm công nghệ sản xuất bê tông từ cát
biển và nước biển. Sau 6 tháng nghiên cứu, công ty này đã thành công khi
cho ra sản phẩm bê tông đạt tiêu chuẩn mà lại tốn ít xi măng. Ngày
14/3/2012, công ty Thạch Anh đã chuyển giao công nghệ cho Bộ Quốc phòng
để ứng dụng vào việc xây dựng các công trình ở Trường Sa.
Hoạt động mới đây nhất thể hiện ý chí
bảo vệ chủ quyền ở Trường Sa của người Việt là khánh thành lá cờ bằng
gốm sứ trên đảo Trường Sa Lớn. Lá cờ bằng gốm trên mái nhà có kích thước
12,40m x 25m (diện tích 310m²) được ghép từ 310.000 viên gốm nhỏ, cỡ 3 x
3cm do công ty Nghệ thuật Tân Hà Nội thực hiện. Với diện tích lớn tới
310m², lá cờ gắn gốm không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mang tính
khẳng định chủ quyền mà còn được sử dụng như một bề mặt thu nước mưa
khổng lồ góp phần tích trữ nước ngọt trên đảo.
| Lá cờ Tổ quốc bằng gốm khổng lồ trên đảo Trường Sa Lớn. Ảnh: www.sggp.org.vn. |
Ngày nay, cả nước đang hướng về Trường
Sa. Nhờ các phương tiện thông tin hiện đại, sự hiểu biết về chủ quyền
biển đảo trong nhân dân, nhất là giới trẻ được phổ biến rất rộng. Đó là
một điểm tựa vững chắc để Nhà nước thực hiện các hoạt động gìn giữ và
bảo vệ chủ quyền ở nơi đảo xa.


Đăng nhận xét